Đến nay, truyện Kiều của Nguyễn Du có đến gần 30 dị bản. Cha ông ta đã học những bản Kiều nào, đời nay đang dạy cho học sinh học truyện Kiều nào? Và có khả năng trong tương lai con cháu ta học những bản Kiều có nhiều chỗ sai biệt khác nữa...
PGS. TS Đào Thái Tôn
Những sai biệt ấy vẫn đang được các nhà nghiên cứu Kiều tìm hiểu, tranh luận với hy vọng càng ngày càng đến gần hơn với nguyên tác truyện Kiều.
Chúng tôi gặp phó giáo sư, tiến sĩ Đào Thái Tôn - một chuyên gia dày công nghiên cứu truyện Kiều. Ông Tôn nhận định: nếu đặt vấn đề tìm nguyên tác truyện Kiều là không tưởng.
Điều này được ông Tôn chứng minh bằng sự thất bại của Viện văn học khi vào năm 1962, phong trào "đi tìm nguyên tác truyện Kiều" được bùng lên sôi động nhưng sau đó nhanh chóng chìm xuống, quay sang một hướng khác là "hiệu đính truyện Kiều".
Theo ông thì có mấy nguyên nhân khiến cho truyện Kiều có nhiều dị bản như thế?
- PGS. TS Đào Thái Tôn: Ta cứ hình dung thế này: Nguyễn Du viết truyện Kiều vào thời Tây Sơn, viết xong thì đưa cho Phạm Quý Thích xem, rồi những học trò lớn của Phạm Quý Thích như Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu ắt là có chép tay một vài bản để dành xem. Việc đưa truyện Kiều cho Phạm Quý Thích (tôi đã viết từ năm 1998) là một điều may mắn cho Nguyễn Du và cho văn hóa dân tộc.
Tôi nghĩ rằng sở dĩ Nguyễn Du gặp được Phạm Quý Thích là cũng do xuất thân con của Nguyễn Nghiễm và em Nguyễn Khản. Sau đó thì Phạm Quý Thích làm thơ đề vịnh truyện Kiều. Bài thơ của ông có tựa là "Thính đoạn trường tân thanh hữu cảm" (nghe Đoạn trường tân thanh có cảm xúc mà làm bài thơ này). Tuy nhiên, bài vịnh Kiều của Phạm Quý Thích này ra đời năm nào đến nay cũng chưa biết.
Còn một lý do để ra đời nhiều dị bản truyện Kiều nữa là các ông quan ở Huế đã chữa truyện Kiều. Đã vào làm quan trong triều đình Huế, thì ai cũng tiến sĩ cả, chắc là các ông ấy nhận định rằng có những chỗ mà một người chưa đỗ tú tài như Nguyễn Du còn kém, nên "chữa hộ" cho. Và họ chữa cũng không phải để họ đem đi in đâu, họ chữa là để ở nhà, cho con cháu họ "được đọc bản Kiều hay hơn". Coi như họ làm ơn cho Nguyễn Du, vì họ đâu có đề tên. Từ tâm lý đó mà thành ra nhiều dị bản. Tâm lý này phổ biến ở Huế.
Ngoài Thăng Long thì ít sửa hơn, bắt đầu từ Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, ai chép cũng cứ thế mà chép, tỷ lệ chữa ít hơn nhiều, nhiều nhất là 18% xa với văn bản. Tôi xác lập được hai hệ văn bản Kiều là hệ văn bản Thăng Long và hệ văn bản Huế.
Vậy là hiện nay, giới nghiên cứu và bạn đọc VN đang đứng trước một rừng truyện Kiều, nhưng không biết đâu là bản Kiều tin cậy nhất, gần với nguyên tác nhất, kể cả các bản của những nhà in danh tiếng trước đây?
- PGS. TS Đào Thái Tôn: Tôi có quan điểm cho rằng bây giờ ta không nên gọi tung hê lên là đã tìm ra bản Kiều cổ nhất. Vì rằng bản Kiều xưa nhất mà ta tìm được cho đến nay, là bản in năm 1866. Thế nhưng nhỡ khi sau này lại có một bản cổ hơn nữa thì sao? Trên nguyên tắc thì người ta tin rằng bản in nào sớm nhất chắc là gần với nguyên tác nhất. Tuy nhiên, tôi thấy là nếu những bản Kiều in vào lúc Nguyễn Du đã mất, thì vẫn có thể sai lạc rất nhiều so với nguyên tác.
Còn những bản Kiều của các nhà in, hoặc của những nhà biên soạn đưa ra xưa nay như: Kiều Oánh Mậu in một bản Kiều năm 1902, Nguyễn Hữu Lập in năm 1870, cả hai ông này tuyên bố chữa truyện Kiều. Rồi bản Kiều của Duy Minh Thị 1872, Trương Vĩnh Ký 1875... nghĩa là tất cả những người đề tên mình lên truyện Kiều đều là những người sửa chữa truyện Kiều.
Xưa nay các nhà nghiên cứu Kiều tranh biện hơi nhiều, ông có thể nói ngắn gọn về những vấn đề còn mắc mứu hiện nay?
- PGS. TS Đào Thái Tôn: Tôi vẫn cứ phải tranh biện, vừa rồi có người ở Nghệ An hỏi tôi một số vấn đề, tôi phải viết bài đăng báo, có thể hình dung có các vấn đề mà giới nghiên cứu gặp phải là: Nguyễn Du viết truyện Kiều khi nào? Cái này ngay cả cụ Hoàng Xuân Hãn, cụ Đào Duy Anh cũng từng khẳng định... nhầm, và sau đó khẳng định lại. Tôi cũng có bài viết khẳng định thời điểm sáng tác truyện Kiều là vào thời Tây Sơn. Một vấn đề nữa là: đâu là nguyên tác truyện Kiều, cái này thì gần như không thể tìm thấy được rồi. Rắc rối nhất vẫn là chuyện chữ nghĩa trong các dị bản...
Nghe có vẻ vô vọng quá, cãi nhau về từ đúng từ sai trên cơ sở không có nguyên tác thì làm sao? Có phải mấy chục năm nay ông mày mò nghiên cứu là để tìm nguyên tác, hay để tìm một bản Kiều chuẩn nhất?
- PGS. TS Đào Thái Tôn: Không ai điên mà làm như vậy. Cụ Hoàng Xuân Hãn từ những năm 40 đã không tìm nguyên tác. Cụ Hoàng Xuân Hãn thuê người ta chép Kiều, để cụ đi tìm. Trong rất nhiều tập truyện Kiều cụ Hãn thuê người ta chép được ấy, có một bản trong đó tất cả chữ Lan là đổi thành chữ Hương. Cụ Hãn kết luận rằng đây là bản Kiều chép tay từ đời Gia Long (vì bản Kiều này kỵ húy chữ Lan) - lúc này Nguyễn Du còn sống. Đây mới là bản Kiều quan trọng, cụ Hãn tìm được vào những năm 1942 - 1943. Nhưng tôi không biết cụ Hãn có mang bản Kiều chép tay đời Gia Long ấy sang Pháp không, và bây giờ nó ở đâu? Tư liệu về điều này cụ Hãn trả lời phỏng vấn trên đài BBC. Lúc cụ sang Pháp và chưa tìm thấy bản Duy Minh Thị (1872).
Còn tôi, tôi đã chứng minh được rằng bản Kiều mà Duy Minh Thị in năm 1872 mà hiện nay chúng ta có được, là khắc in từ một bản chép tay. Điều này chứng minh rằng thời vua Tự Đức không khắc in truyện Kiều, bản Kiều của Kiều Oánh Mậu in năm 1902 cũng từ một bản chép tay do ông Đào Nguyên Phổ được tặng, mang từ Huế về.
Thế thì, làm sao để chúng ta có một bản Kiều có thể gọi là đáng tin cậy được?
- PGS. TS Đào Thái Tôn: Theo phương pháp của cụ Hoàng Xuân Hãn, là phải bám vào phong cách văn tự Nguyễn Du, Nguyễn Du đã viết một chữ nào thì từ đầu đến cuối ông viết y như thế, chứ chữ Nôm thì có nhiều cách viết khác nhau khi viết một chữ, điển hình nhất là chữ "treo" mà người ta phiên thành "gieo", "chiếu" lung tung.
Trong truyện Kiều, Nguyễn Du có sự nhất quán rất cao về một mã chữ nôm nào đó, không hề tùy tiện. Vì thế chúng tôi xem đây là phong cách văn tự của tác giả, là tiêu chí ổn định và được xem như một nguyên tắc khi xem xét các bản chữ nôm đã được sửa chữa của truyện Kiều. Theo nguyên tắc này, bất cứ chữ nào lạc ra khỏi hệ thống phong cách văn tự Nguyễn Du thì phải đặt vấn đề nghi ngờ ngay.
Bằng phương pháp đó, cộng với việc phân định hệ văn bản Thăng Long và Huế mà tôi đã trình bày, dùng phương pháp thống kê để tìm ra những chữ sai biệt xa với hệ văn bản tin cậy (là hệ văn bản Thăng Long). Chúng tôi hy vọng sẽ tìm ra được những chữ mà Nguyễn Du dùng khi viết truyện Kiều. Còn một bản Kiều nguyên tác của Nguyễn Du, chắc là một bản chép tay, đến nay thì không hy vọng gì tìm được.
(Theo Tuổi trẻ)
...
Thi hào Nguyễn Du viết Truyện Kiều khi nào?
Thứ tư, 01 Tháng 4 2009 07:47
Ban đầu người ta tin rằng Truyện Kiều được viết vào khoảng 1813 đến 1820 vì hiểu chữ “hành thế” trong câu: “Du trường ư thi, vưu thiện quốc âm, Thanh sứ hoàn, dĩ Bắc hành thi tập cập Thúy Kiều truyện hành thế” ở Đại Nam chính biên liệt truyện là sáng tác.
Thực ra “hành thế” chỉ có nghĩa là lưu truyền trong đời, tức là được mọi người biết đến. Vả lại, “tận tín thư, bất như vô thư”, không nên quá tin vào sách, GS Đào Duy Anh viết “sách Liệt truyện, tuy là quốc sử, cũng không đủ cho ta tin” (xin xem sách của Đào Duy Anh: Khảo luận về Truyện Thuý Kiều, 1958). Bởi vì ở đó tên các sách Thuý Kiều truyện và Bắc hành thi tập chỉ là tên gọi tục; chính xác thì hai áng văn này phải được gọi là Đoạn trường tân thanh và Bắc hành tạp lục.
Rất nhiều bằng cứ cho thấy Truyện Kiều được viết trước đó rất lâu.
Chúng tôi sẽ dẫn những bằng cứ này ngược dòng thời gian lùi sâu vào quá khứ.
Học giả Hoàng Xuân Hãn có nhắc đến Phạm Quý Thích là người đầu tiên đề thơ về Kiều trên đường vào Kinh. Ông Vũ Thế Khôi cho biết bài “Giai nhân bất thị đáo Tiền Đường …” thật ra có tên là Thính Đoạn trường tân thanh hữu cảm có trong tập Lập Trai Tiên sinh di thi tục tập, ký hiệu A 2140.
Mới đây, Hà Thị Tuệ Thành, tiếp tục công việc của ông Vũ Thế Khôi, tìm thấy bài này trong Lập trai Phạm Tiên sinh thi tập, kí hiệu A-400 và qua đó xác định được Phạm Quý Thích viết bài thơ này vào năm 1811 (xin xem bài tham luận tại Hội thảo Quốc tế về chữ Nôm, Huế, 31/5 đến 2/6/2006). Truyện Kiều phải được viết trước đó.
Học giả Hoàng Xuân Hãn đã cho biết: Nguyễn Lượng bị chết vào khoảng 1807. Vì có sự phê bình của ông ấy nên biết rằng Truyện Kiều được viết vào đầu đời Gia Long hoặc trước đời Gia Long (xin xem tạp chí Văn học, số 3-1997). PGS Ngô Đức Thọ thấy Đại Nam nhất thống chí viết Nguyễn Lượng bị chết năm 1807 đúng như Học giả Hoàng Xuân Hãn nói.
Liên quan đến Nguyễn Lượng, gần đây Phan Thanh Sơn và Hà Thị Tuệ Thành nhận thấy trong lời bình bằng chữ Hán của ông có bốn chữ “bách chủng hoan ngu”. Chắc chắn ông không dám viết chữ CHỦNG vào thời Nguyễn vì vào năm 1803 Gia long đã có lệnh cấm dùng chữ CHỦNG, khi viết phải thay bằng chữ THỰC (xin xem tạp chí Văn hóa Nghệ An số 71, 25/2/2006).
Trương Chính nhận xét rằng trong Truyện Kiều có những câu “nghịch ngôn” như:
“Bó thân về với triều đình
Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu?”
“Chọc trời khuấy nước mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”
(xin xem tạp chí Văn học số 6 (12/1963)
Những câu này chỉ có thể được sáng tác trước thời Nguyễn.
Ông Nguyễn Khắc Bảo nhận thấy bản Liễu Văn Đường 1871 còn sót các chữ đáng lẽ phải kiêng dưới thời Nguyễn. “Câu 853: Tuồng chi là giống hôi tanh. Câu 1310: Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa.
Câu 2750: Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày. Trong đó những chữ Chủng là tên vua Gia Long hồi nhỏ, và chữ Lan là tên mẹ cả của vua Gia Long tức Huy Gia từ phi” (xin xem tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 6 (56) 2000).
Đến nay, hầu như ai cũng thừa nhận: Truyện Kiều được hoàn thành trước tiên; sau đó Nguyễn Thiện theo văn Kiều mà nhuận sắc Hoa tiên, và cuối cùng Nguyễn Huy Hổ theo văn Hoa tiên mà viết Mai đình mộng ký. Tác phẩm sau cùng hoàn thành vào năm 1809.
Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đã chứng minh rằng Hoa tiên, tác phẩm thứ hai được nhuận sắc trong khoảng mười năm cuối thế kỷ 18. Trong Hoa tiên có bài thơ chữ Hán trong đó có chữ CHỦNG, tên của Gia Long (xin xem báo Văn nghệ, số 22).
Đây chính là một lý do để ta tin rằng Truyện Kiều, tác phẩm thứ nhất phải được viết trước việc nhuận sắc Hoa tiên vài năm.
Trước đây, nhiều người cho rằng nhờ chuyến đi sứ Nguyễn Du mới được tiếp xúc với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân để sau đó viết Truyện Kiều. Điều này không đúng. Có nhiều giả thuyết về thời điểm Kim Vân Kiều truyện vào nước ta: học giả Hoàng Xuân Hãn đoán rằng có thể do Nguyễn Nễ (có tên là Đề và là anh ruột Nguyễn Du) hoặc Đoàn Nguyễn Tuấn (anh vợ Nguyễn Du) cùng đi sứ thời Tây Sơn, khoảng 1792-1793 mang về.
PGS Thạch Giang lại cho rằng, có thể trong chuyến đi sứ năm 1763, Thám hoa Nguyễn Huy Oánh đã mang Hoa tiên và Kim Vân Kiều truyện từ Trung Quốc về tàng trữ tại Phúc Giang thư viện. Nhờ đó Nguyễn Huy Hổ có điều kiện đọc Hoa tiên, Nguyễn Du do lui tới Phúc Giang thư viện học tập, nấu sử sôi kinh sớm được đọc Kim Vân Kiều truyện để sáng tác Truyện Kiều.
Song, điều này thì chắc chắn: ở truyện “Liên Hồ quận quân” trong cuốn “Lan Trì kiến văn lục”, viết vào khoảng 1793-1794 của Vũ Trinh, có câu: “Thúy Kiều gieo mình sông lớn”. Trước năm 1794 Vũ Trinh đã biết đến Kim Vân Kiều truyện. Chắc chắn, Nguyễn Du đã được tiếp cận với Kim Vân Kiều truyện không muộn hơn Vũ Trinh (theo Nguyễn Hoàng Sơn, báo Văn nghệ, số 35+36, 2/9/2004)...
Những chứng cứ trên cho phép ta hình dung:
Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân đã vào nước ta vào những năm sáu mươi, bảy mươi của thế kỷ 18. Nhờ đó Nguyễn Du sớm được đọc và theo đó mà viết Truyện Kiều. Nguyễn Thiện theo văn Kiều mà nhuận sắc Hoa tiên vào mười năm cuối thế kỷ 18. Nguyễn Huy Hổ theo văn Kiều và văn Hoa tiên mà viết Mai đình mộng ký, hoàn thành vào năm 1809. Như thế Truyện Kiều xong trước việc nhuận sắc Hoa tiên nên phải được viết vào những năm cuối đời Lê đầu đời Tây Sơn, trùng với kết luận của GS Nguyễn Tài Cẩn rút ra được từ việc phát hiện chữ húy thời Lê - Trịnh trong một số bản Kiều Nôm.
PGS LÊ THANH LÂN
(Nguồn: lucbat.com)
...
Góp một cách nhìn về Nguyễn Du và 'Truyện Kiều'
Nguyễn Sĩ Đại
Trong hội thảo khoa học về Nguyễn Du tháng 12/2005 vừa qua, nhiều ý kiến khẳng định rằng, trong thời đại ngày nay, Nguyễn Du và Truyện Kiều mới được tôn vinh xứng đáng với giá trị của nó. Ý kiến đó có hoàn toàn chính xác?
Nguyễn Du là một thiên tài. Thiên tài được hình thành không chỉ từ học vấn, từ bối cảnh xã hội cụ thể nào mà còn có yếu tố từ vũ trụ, từ một khoảnh khắc nào đó mà thôi... Truyện Kiều là một kiệt tác. Là kiệt tác, nó luôn ẩn chứa những thông tin vĩnh cửu. Không thể lấy thước đo của một thời mà đo chiều kích của thiên tài và kiệt tác. Nhưng mỗi thời, đánh giá và khai thác di sản quá khứ một cách khác nhau, âu cũng là lẽ thường tình. Với những kiệt tác, với những nhân vật kiệt xuất trong lịch sử, theo tôi, không nên tìm những “nhược điểm” theo cách nhìn của mình mà nên đi hết tầm xa, tầm rộng của họ.
1. Truyện Kiều là truyện tình năm Gia Tĩnh triều Minh hay truyện thế sự, truyện về thân phận con người của muôn đời?
Tôi được nghe cha tôi giảng Kiều từ nhỏ. Ấy là vì mẹ tôi mê Kiều đến nỗi, dù đã thuộc lòng, đêm nào cũng bắt cha tôi giảng giải kỹ từng đoạn. Có lần, hai người tranh luận sôi nổi quá, cha tôi quờ tay làm rơi cái đèn chai. Mảnh thủy tinh vỡ còn để sẹo ở tôi đến bây giờ. Thế nhưng ngay cả khi học xong đại học, tôi không bao giờ chú ý thấu đáo cái đoạn mở đầu của Truyện Kiều. Đến bây giờ, tôi thấy không hiểu cái đoạn “đơn giản” như một lời dẫn chuyện ấy thì không thể hiểu hết Truyện Kiều và Nguyễn Du.
Đoạn mở đầu ấy là:
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
“Trăm năm” là thời gian, là khoảng sống của một đời người và cũng là từng trăm năm kiếp người một. “Cõi người ta” là không gian. Tóm lại, câu ấy gồm cả vũ trụ, là sự vĩnh cửu trong cõi người. Chữ “Tài” là tài năng, là cái vốn có, là khát vọng của con người cá nhân. “Mệnh” là điều kiện khách quan, mà khách quan thì có đáp ứng, có hạn chế. Đối với bậc tài hoa thì sự hạn chế ấy là phũ phàng vì nó vượt qua tầm thời đại, nó là sự bù lại “lộc trời” đã ban cho quá lớn. Trải qua một cuộc bể dâu - Những điều trông thấy mà đau đớn lòng là thế sự, là toàn bộ chuyện đời. Truyện Kiều do đó không phải là chuyện tình, mà là một “tiểu thuyết” luận đề. Vấn đề ở đây là quan hệ con người cá nhân với xã hội. Và cách giải quyết của Nguyễn Du là Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Có người cho rằng, để giải quyết nỗi khổ của con người, phải có một cuộc cách mạng triệt để. Nhưng thực tế, nỗi khổ và oan khuất của con người có bao giờ hết? Trong trăm năm cõi người, lấy chữ “tâm” để ứng xử, không chỉ là ảnh hưởng của đạo Phật mà là một triết lý sâu xa, là tinh hoa những tư tưởng mà Nguyễn Du tiếp thu được cộng với sự trải nghiệm của ông trong quãng đời ngắn ngủi của mình chứng kiến sự sụp đổ của nhiều triều đại, sự tạm bợ của nhiều điều, kể cả chính cả bản thân sự sống. Có người nói Nguyễn Du ảnh hưởng của giáo lý này, giáo lý khác. Không, ông đã đứng được ở bờ vĩnh cửu, đã không chỉ nói quan hệ xã hội của con người mà còn nói tới quan hệ của cõi sống với những cõi khác huyền diệu.
2. Vì sao Nguyễn Du lại chọn Thúy Kiều, một phụ nữ tài sắc thuộc tầng lớp trung lưu, làm nhân vật chính?
Không lấy nhân vật chính là người lao động bình thường không phải là hạn chế của Nguyễn Du theo quan điểm giai cấp mà là chỉ với sự lựa chọn ấy, Nguyễn Du mới có thể dẫn Thúy Kiều và chúng ta tới mọi cảnh ngộ của đời sống, mọi cung bậc của tình cảm. Theo tôi, đó là một lựa chọn thiên tài.
3. Vì sao Nguyễn Du lại lựa chọn một câu chuyện Trung Hoa?
Đây lại là một lựa chọn thiên tài nữa. Nó làm cho tác phẩm mang tính phổ quát. Thứ nữa, trong các xã hội, nhất là trong xã hội phong kiến, có những án văn tự dẫn đến việc đốt sách và mang họa tru di. Nguyễn Du là người biết rất rõ điều đó. Có một câu về Từ Hải thôi mà Tự Đức nói, nếu Nguyễn Du còn sống thì phải nọc ra đánh. Vậy viết một chuyện cụ thể Việt Nam, liên quan đến một dòng họ cầm quyền nào đó với sức tố cáo lớn như vậy, liệu Truyện Kiều có còn đến ngày nay?
Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khốc Tố Như? - Đó là câu thơ trong bài Độc Tiểu Thanh ký. Nàng Tiểu Thanh là người tài sắc, sống vào thời nhà Minh, bị vợ cả ghen giam lỏng trên núi đến buồn mà chết. Nguyễn Du đọc được một bài thơ còn sót lại sau khi bị đốt của nàng, cảm kích mà làm bài này. Bài thơ được ông Vũ Tam Tập dịch là:
Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn
Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
Tôi không dám không hiểu như các cụ túc nho đã dịch và lâu nay mọi người vẫn hiểu. Nhưng tôi cũng có một băn khoăn. Vì sao lại là ba trăm năm? Có thuyết cho rằng Tiểu Thanh sống cách Nguyễn Du ba trăm năm. Nhưng các cụ cũng nói rõ, đấy chỉ là giả thuyết, còn ý của Nguyễn Du thật như thế nào thì cũng chưa biết. “Tam bách dư niên” phải chăng là một con số ước lệ, chỉ một vòng triều đại, một cuộc biến thiên lớn của lịch sử? Quả là Nguyễn Du có hay nói về già bệnh, về cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân nhưng ngay cả đến lúc chết, ông cũng chỉ nói “Được” rất thanh thản. Ông có cần, có mong muốn người đời sau khóc thương mình hay không? Nếu nghi vấn ấy có lý thì câu thơ sẽ phải được hiểu khác, sẽ mang một trường nghĩa rộng hơn. Giả sử, Nguyễn Du đặt câu hỏi, ba trăm năm sau còn người ở vào chỗ phong vận kỳ oan như Nguyễn Du mà đồng bệnh tương liên?
Và cuối cùng, tôi nghĩ rằng, tình cảm chính của chúng ta hôm nay và hậu thế cũng không phải là khóc thương ông, mà muôn vàn khâm phục, biết ơn những di sản tinh thần vô giá mà ông đã sáng tạo nên. Dẫu trong Truyện Kiều có bao nhiêu oan khuất thì sáng lên nhất vẫn là mối tình nồng thắm, đẹp đẽ của Kim - Kiều trong những ngày xuân. Nó làm sáng lên ước vọng yêu đời của không biết bao nhiêu thế hệ, nó hướng con người tới những vì sao của tình yêu và hạnh phúc.
Đánh giá về Truyện Kiều theo dòng lịch sử
Trong lời tựa của bản Kiều đem in năm 1820, Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân viết: “Ta lúc nhàn đọc hết cả một lượt, mới lấy làm lạ rằng: Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh như hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải con mắt trông cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy”.
Vua quan thời Minh Mệnh, Tự Đức đều rất mê Kiều. Tự Đức muốn nọc Nguyễn Du ra đánh một trăm roi vì câu Chọc trời khuấy nước mặc dầu, Dọc ngang nào biết trên đầu có ai. Nhưng cũng Tự Đức: Mê gì? Mê đánh tổ tôm, Mê ngựa Hậu bổ, mê Nôm Thúy Kiều.
Tuy nhiên, có một luồng khác coi Truyện Kiều là một dâm thư: Đàn ông chớ kể Phan Trần, Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều.
Phạm Quỳnh trong bài diễn văn đọc tại Hội Khai trí tiến đức năm 1924 tại Hà Nội: “Truyện Kiều không chỉ đối với văn hóa nước nhà mà đối với văn học thế giới cũng chiếm được một địa vị cao quý... Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn...”.
Để chống lại quan điểm này, quan điểm mà các nhà cách mạng cho nhằm để “ru ngủ” thanh niên, chí sĩ Ngô Đức Kế trong bài Luận về chánh học cùng tà thuyết, Quốc văn, Kim Vân Kiều, Nguyễn Du cùng năm đó viết trên tạp chí Hữu Thanh: “Văn tuy hay mà truyện là truyện phong tình, thì có vẻ ai dâm sầu oán, đạo dục tăng bi... Các gã thiếu niên chí khí chưa định, tình dục đang nồng, xem truyện thì mê, rồi sinh cái tư tưởng trộm ngọc cắp hương, khêu hoa ghẹo nguyệt, say đắm trong trời tình bể ái mà mềm nhũn cái gan lòng sắt đá, bỏ mất cái chí nguyện cao xa...”.
Sau cách mạng, chỉ có bài của Ngô Đức Kế chứ không có bài của Phạm Quỳnh được dạy trong nhà trường. Một giáo trình đại học còn viết: Âm mưu của Phạm Quỳnh là ở chỗ này: “Truyện Kiều còn... nước ta còn”, như thế thì yêu nước chỉ lao đầu vào nghiên cứu Truyện Kiều chứ cần gì phải đấu tranh chống Pháp!
Bên cạnh sự ngợi khen và tôn vinh, học tập và nghiên cứu nhiều nhất từ trước tới nay, nửa thế kỷ qua vẫn còn nhiều lời phê phán đối với Truyện Kiều và tác giả của nó.
Trong bài Quyền sống của con người trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Hoài Thanh viết: “Nguyễn Du đã cảm thông được một phần nỗi khổ chung của con người bị chà đạp dưới một chế độ ngày càng thêm mục nát. Cố nhiên cũng chỉ cảm thông được một phần thôi. Rốt cuộc, Nguyễn Du vẫn là người của giai cấp phong kiến, của chế độ phong kiến”.
Nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai trong khi đề cao Truyện Kiều là tác phẩm ưu tú nhất, cũng viết: “Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du cố nhiên mới chỉ biểu hiện bằng những phương thức yếu ớt theo đạo lý chữ nhân của đạo Khổng hoặc theo tinh thần hiếu sinh của đạo Phật, chưa phải là chiến đấu tính cho nhân đạo, cho con người... Trong Truyện Kiều, tính chiến đấu chưa phải là tích cực và đúng với lập trường; mâu thuẫn chỉ giải quyết theo tinh thần thỏa hiệp với chế độ, tinh thần khuất phục với mệnh trời” (Đặc sắc của văn học cổ điển Việt Nam qua nội dung Truyện Kiều).
Nguồn: Người lao động